
Giành quyền nuôi con khi ly hôn
Căn cứ:
- Bộ luật dân sự 2015
- Luật hôn nhân và gia đình 2014
Nội dung tư vấn
1. Nghĩa vụ nuôi con sau ly hôn
Ly hôn là hành vi pháp lý chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa hai người. Tuy nhiên, sẽ là vấn đề nếu như hai bên đã cùng nhau có con chung, thủ tục pháp lý này sẽ trở nên phức tạp hơn. Bởi vì trên thực tế, “máu mủ tình thân” là thứ mà bất cứ người làm cha, làm mẹ nào cũng muốn được tự mình nuôi nấng, dạy bảo nên người. Vậy nên, tranh giành quyền ly hôn luôn là vấn đề nóng trong các vụ án ly hôn.
Hơn vậy nữa, việc nuôi con không chỉ xuất phát từ quyền, mà nó còn là nghĩa vụ. Sau ly hôn, vợ chồng vẫn phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dạy con trong các trường hợp con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Điều 81: Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
Việc quyết định xem ai là người nuôi con sau ly hôn sẽ được lựa chọn thông qua hai con đường: Thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
Thứ nhất, Bằng việc thỏa thuận. Đây là trường hợp ly hôn thuận tình, hai bên sẽ cùng nhau ngồi xuống, bàn bạc về vấn đề rằng ai sẽ là người nuôi con. Liệu rằng, con cái được ai nuôi dạy, sống bên cạnh ai sẽ được phát triển toàn diện hơn, hoặc ai có điều kiện chăm sóc, nuôi dạy hơn.
Điều 81: Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
….
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Thứ hai, bằng con đường Tòa án, việc xác định xem ai là người có quyền nuôi con sẽ dựa trên điều kiện về kinh tế đôi bên, độ tuổi con,nguyện vọng các con và các yếu tố khác.
2. Tuổi của con ảnh hưởng đến quyết định quyền nuôi như thế nào?
Vấn đề về sự ảnh hưởng của độ tuổi đến quyết định quyền nuôi con sẽ có hai mốc tuổi được pháp luật quy định đó là dưới 36 tháng tuổi và trên 7 tuổi. Cụ thể:
Thứ nhất, Đối với con dưới 36 tháng tuổi:
Cần phải hiểu rằng, việc nuôi con trước tiên nó là nghĩa vụ, song, nhằm đảm bảo cho việc con cái được phát triển một cách tốt nhất cũng như quyền và nghĩa vụ của người vợ được đảm bảo trong thời gian nuôi con nhỏ hay mang thai, pháp luật quy định, chồng không được quyền ly hôn trong trường hợp này. Cụ thể quy định tại Điều 51, Luật hôn nhân gia đình 2014:
Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
…
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Tuy nhiên, pháp luật chỉ tước quyền ly hôn của chồng, nhưng với vợ thì không. Nếu xét thấy việc tiếp tục sống chung với chồng có dấu hiệu của bạo hành, hay hạnh phúc hôn nhân không đạt được,..thì vợ vẫn có quyền yêu cầu Tòa giải quyết ly hôn.
Với độ tuổi này, việc thực hiện quyền ly hôn của vợ sẽ dẫn đến quyết định quyền nuôi con sẽ đương nhiên thuộc về người mẹ. Cụ thể, tại
Điều 81: Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
…
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Theo quy định này, pháp luật ưu tiên quyền nuôi con trước tiên cho người mẹ. Bởi vì trên thực tế, việc mang thai, sinh con và chăm sóc con sau sinh không ai tốt hơn mẹ. Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo điều kiện tốt nhất cho đứa trẻ vừa được sinh ra.
Tuy nhiên, không phải lúc nào quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi cũng thuộc về người mẹ. Trường hợp xét thấy người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc hai bên có sự thỏa thuận thống nhất về quyền nuôi con cho chồng thì Tòa án sẽ giao cho chồng nuôi. Như vậy, hơn bao giờ hết, sự thỏa thuận về quyền nuôi con luôn được các Tòa án tôn trọng.
Thứ hai, đối với con trên 7 tuổi.
Độ tuổi 7, con cái đã có thể nhận thức được mình thích ở với ai, ở với ai sẽ thỏa mái hơn thì pháp luật cũng sẽ tôn trọng quyền này của trẻ nhỏ. Bởi, việc phát triển tâm sinh lý của một đứa trẻ nó phụ thuộc rất nhiều đến môi trường sống và giáo dục. Việc ly hôn có con trên 7 tuổi vì thế mà Tòa sẽ phải hỏi ý kiến, nguyện vọng của con nhỏ thể hiện dưới dạng văn bản. Quy định cụ thể tại điều 81:
Điều 81: Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
….
2. Vợ, chồng thõa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Tuy nhiên, không phải nguyện vọng của con như nào thì Tòa án sẽ theo quyết định nó, đây chỉ là một căn cứ xét rất nhỏ, bởi còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, nuôi dưỡng của các bên mà Tòa sẽ đưa ra quyết định cuối cùng.
Như vậy, không chỉ cần chứng minh về nguyện vọng, độ tuổi, trường hợp nào, việc ai sẽ là người có quyền nuôi con còn phụ thuộc nhiều về điều kiện kinh tế, về tinh thần, thu nhập,…thể hiện qua sở hữu, tài sản, nơi ở ổn định, thời gian để ở bên con, chăm sóc, nuôi dưỡng con, luôn phải đặt con lên hàng đầu…
3. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ khi thực hiện ly hôn
Sau khi có quyết định của Tòa án, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con, có nghĩa vụ cấp dưỡng và có quyền thăm nom con mà không bất cứ ai được cản trở.
Thứ nhất, Quyền thăm nom khi không trực tiếp nuôi con
Máu mủ tình thân là quan hệ huyết thống thiêng liêng. Bởi vậy, việc cho phép thăm nom con cái sau ly hôn là một quy định hoàn toàn hợp lý, hợp tình mà không được ai cản trở. Song, nếu việc thăm nom này ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì đó lại là một hành vi phải bị cấm. Khi đó, người có trách nhiệm nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom.
Tại Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định các trường hợp bị Tòa án hạn chế quyền thăm nom con:
Điều 85: Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên:
1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phá tán tài sản của con;
c) Có lối sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
Quy luật một bên nuôi dưỡng con, bên kia cũng phải có nghĩa vụ gánh vác một phần trách nhiệm về cấp dưỡng nuôi con về vật chất. Mức cấp dưỡng sẽ phụ thuộc vào hai yếu tố:
- Điều kiện kinh tế của người cấp dưỡng
- Chi phí sinh cần thiết của người được cấp dưỡng(con cái)
Việc quyết định mức cấp dưỡng trước tiên phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên. Nếu không thể thỏa thuận được, Tòa án mới áp dụng mức cấp dưỡng dao động 15-30% mức thu nhập của người cấp dưỡng.
4. Xử phạt hành vi vi phạm quy định về quyền nuôi con
Có hai hình thức xử phạt chính đối với hành vi vi phạm quy định vè quyền nuôi con là xử phạt hành chính hoặc khởi tố hình sự.
Về xử phạt hành chính:
Đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa cha, mẹ và con thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 nghìn đồng đến 300 nghìn đồng Theo quy định tại Điều 53 Nghị định 167/2013/NĐ-CP
Điều 53: hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà cháu, giữa cha mẹ và con, giữa vợ chồng, giữa anh chị, em với nhau:
Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.
Còn với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn, giữa cha mẹ và con sau khi ly hôn thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 nghìn đồng đến 300 nghìn đồng theo quy định tại Điều 54 Nghị định 167/2013/NĐ-CP
Điều 54: Vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng:
Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
1. Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn, từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa anh, chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và các cháu theo quy định của pháp luật
2. Từ chối trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cha, mẹ, nghĩa vụ cấp dưỡng chăm sóc con sau ly hôn theo quy định của pháp luật.
Về khởi tố hình sự:
Trường hợp việc trốn tránh hoặc từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng từ cha mẹ làm cho người con lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe thì sẽ chị hình phạt tù cao nhất lên đến 2 năm theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự 2015.
“Điều 186. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”