NGƯỜI LAO ĐỘNG PHẢI BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG TRƯỜNG HỢP NÀO?
Bộ luật Lao động năm 2012 đã quy định về bồi thường thiệt hại, tạo điều kiện cho các bên tham gia Hợp đồng lao động có điều kiện đảm bảo quyền và lợi ích của mình. Theo đó, các bên tham gia quan hệ lao động nên thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tránh những sai phạm không đáng có. Bộ luật Lao động năm 2012 đã quy định 03 trường hợp người lao động phải bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động, đó là: Người lao động đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật; Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị của Doanh nghiệp và Người lao động vi phạm bí mật kinh doanh, thương mại.
Người lao động đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật
Người lao động (NLĐ) có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) trái pháp luật (hay còn gọi là “tự ý nghỉ việc”, “nghỉ ngang”) nếu lý do nghỉ việc không phù hợp với quy định pháp luật hoặc vi phạm nghĩa vụ báo trước cho doanh nghiệp
Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 1 Điều 43 của Bộ luật Lao động năm 2012 và Điều 49 của Luật Việc làm năm 2013, NLĐ không những không được nhận trợ cấp thôi việc mà còn phải bồi thường cho doanh nghiệp nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Bên cạnh đó, nếu NLĐ vi phạm về thời hạn báo trước thì còn phải bồi thường cho doanh nghiệp thêm một khoản tiền tương ứng với tiền lương trong những ngày không báo trước và phải hoàn trả chi phí đào tạo cho doanh nghiệp (nếu có).
Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị của Doanh nghiệp
Trừ trường hợp tài sản bị thiệt hại do thiên tai, hoả hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm họa hoặc sự kiện bất khả kháng khác; NLĐ phải bồi thường cho doanh nghiệp nếu:
– Làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của doanh nghiệp;
– Làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của doanh nghiệp hoặc tài sản khác do doanh nghiệp giao;
– Tiêu hao vật tư quá định mức cho phép.
Tùy vào mức độ thiệt hại và thỏa thuận với doanh nghiệp mà NLĐ sẽ phải bồi thường một phần hoặc toàn bộ giá trị thiệt hại theo thời giá thị trường; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm.
Trong đó, nếu NLĐ sơ suất gây thiệt hại không nghiêm trọng với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng, thì phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương.
Mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương hằng tháng của NLĐ sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.
Người lao động vi phạm bí mật kinh doanh, thương mại
Bí mật kinh doanh, công nghệ là tài sản quan trọng trong doanh nghiệp. Bên cạnh cơ chế bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về lao động cũng có quy định bảo hộ tại Khoản 2 Điều 21 của Bộ luật Lao động năm 2012, cụ thể:
“Điều 21. Nội dung hợp đồng lao động
…
2. Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật, thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp người lao động vi phạm. […]”
Theo đó, nếu NLĐ có văn bản thỏa thuận với doanh nghiệp về nghĩa vụ bảo vệ bí mật kinh doanh, công nghệ mà vi phạm thỏa thuận thì phải bồi thường. Mức bồi thường cụ thể thực hiện theo văn bản đã giao kết hoặc thỏa thuận giữa các bên.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư Thuận An về vấn đề “Người lao động phải bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động trong trường hợp nào?”. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua số Hotline để được hỗ trợ. Số Hotline: 0915.559.279
Nguồn: Tư vấn Pháp luật