
Vấn đề pháp lý liên quan đến thực hiện Hợp đồng trong mùa dịch Covid-19
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 và yêu cầu “cách ly toàn xã hội” mà các cấp có thẩm quyền vừa công bố mới đây có được coi là sự kiện bất khả kháng để xem xét, miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng hay không? Trách nhiệm của bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định như thế nào và sẽ phải giải quyết như thế nào đối với vấn đề có thiệt hại phát sinh do dịch bệnh Covid-19 và các biện pháp phòng, chống dịch mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng, buộc người dân, doanh nghiệp… phải tuân thủ?
Về vấn đề Hợp đồng
Trong Bộ luật Dân sự năm 2015, tại khoản 1 Điều 156 quy định: ‘‘Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép’’.
Tại khoản 2 Điều 351 quy định: ‘‘Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác’’.
Tại khoản 2 Điều 584 quy định: ‘‘Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác’’.
Đây là những cơ sở pháp luật để xem xét trách nhiệm và giải quyết những vấn đề phát sinh trong trường hợp này.
Đối với quan hệ hợp đồng kinh doanh thương mại, tại Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 quy định về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng. Trong đó có quy định bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.
Tuy nhiên, kể cả trong trường hợp được miễn trách nhiệm, bên vi phạm hợp đồng phải hết sức lưu ý quy định tại Điều 295 Luật Thương mại về trách nhiệm thông báo và xác nhận trường hợp miễn trách nhiệm. Theo quy định tại Điều này, Bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết; nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về trường hợp miễn trách nhiệm của mình. Đồng thời, trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng thì theo quy định tại Điều 296 Luật thương mại, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Mặc dù vậy, quy định về việc kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng này không áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ. Trường hợp từ chối thực hiện hợp đồng thì trong thời hạn không quá mười ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này bên từ chối phải thông báo cho bên kia biết trước khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng.
Về vấn đề lao động
Dịch bệnh Covid-19 làm cho rất nhiều doanh nghiệp mất đi khách hàng, thị trường, cơ hội kinh doanh nên đã phải chấp nhận thu hẹp quy mô, thậm chí ngừng sản xuất kinh doanh, sắp xếp lại lao động, tinh giảm nhân sự theo hướng hoặc cho nghỉ việc tạm thời, nghỉ luân phiên, thậm chí cho nghỉ hẳn để giảm bớt áp lực khó khăn do doanh thu bị ảnh hưởng, nguồn thu sụt giảm nghiêm trọng. Vậy quyền lợi của người lao động trong tình huống này được giải quyết như thế nào? Doanh nghiệp cho nhân viên nghỉ việc không lương – Đúng hay sai?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 98 Bộ luật Lao động năm 2012: ‘‘Nếu vì sự cố về điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động, người lao động hoặc vì các nguyên nhân khách quan khác như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch hoạ, di dời địa điểm hoạt động theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc vì lý do kinh tế, thì tiền lương ngừng việc do hai bên thoả thuận nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định’’.
Theo quy định này, nếu người sử dụng lao động cho người lao động ngừng việc thì tiền lương do hai bên thoả thuận nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định. Trường hợp do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 mà người sử dụng lao động phải đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động thì phải đáp ứng điều kiện là: Người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, kinh doanh, giảm chỗ làm việc. Đồng thời, phải đảm bảo thời hạn báo trước cho phía người lao động theo quy định tại Điểm c Khoản 1 và Khoản 2 Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012.
Nguồn: Tham khảo