
Xử lý hành vi vi phạm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ
Mang thai hộ là việc một người phụ nữ tự nguyện giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con. Vậy, khi có hành vi vi phạm thì xử lý lý hành vi vi phạm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ như thế nào? Luật sư Thuận An giải đáp thắc mắc qua bài viết dưới đây.
1. Xử lý hành vi vi phạm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ
Các bên trong quan hệ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vi phạm điều kiện, quyền, nghĩa vụ được quy định tại Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự.
Mức xử phạt theo trách nhiệm hành chính, hình sự, dân sự cụ thể như sau
-
Xử phạt hành chính
– Căn cứ Điều 60 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định đối với hành vi thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
– Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại.
-
Bồi thường thiệt hại
– Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là quyền dân sự của cá nhân. Vì vậy, trách nhiệm dân sự đặt ra với các chủ thể khi vi phạm thỏa thuận; hoặc gây thiệt hại trong quan hệ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
– Căn cứ Điều 11 Bộ luật dân sự năm 2015, quy định phương thức bảo vệ quyền dân sự; trong trường hợp có hành vi vi phạm sự thỏa thuận về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; có thể áp dụng bao gồm: Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc thực hiện nghĩa vụ; buộc bồi thường thiệt hại.
– Căn cứ Điều 13 và Điều 360 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định; khi có thiệt hại do vi phạm quyền, nghĩa vụ gây ra thì bên bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại; trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
-
Xử lý hình sự
Nếu hành vi vi phạm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chỉ vì mục đích thương mại; có tính chất và mức độ nguy hiểm, cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại sẽ cấu thành tội Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015.
Hành vi tổ chức mang thai hộ gồm tổng hợp nhiều hành vi khác nhau; từ việc tạo điều kiện cho bên có nhu cầu mang thai gặp gỡ, trao đổi; và hỗ trợ phương tiện để các bên tiến hành việc mang thai hộ. Mục đích của người tổ chức mang thai hộ trong trường hợp này là nhận được lợi ích vật chất của bên nhờ mang thai hộ.
Căn cứ Điều 187 Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định các khung hình phạt về Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại:
– Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng; phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm; hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm; đối với hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.
– Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: Đối với 02 người trở lên; Phạm tội 02 lần trở lên; Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức; Tái phạm nguy hiểm.
– Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy, tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội mà áp dụng các khung hình phạt tương thích cho hành vi vi phạm.
2. Thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con
– Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
– Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
3. Người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con
– Cha, mẹ, con đã thành niên không bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký hộ tịch xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 101 của Luật này.
– Cha, mẹ, con, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này.
– Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật Hôn nhân và gia đình:
+ Cha, mẹ, con, người giám hộ;
+ Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
+ Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
+ Hội liên hiệp phụ nữ.